![]() |
Công tử Bạc Liêu và Khách sạn Công tử Bạc Liêu |
Con người và giai thoại về Công tử Bạc Liêu Trần Trinh Huy
Con Người:
Trần Trinh Huy từng đi du học ở Pháp, sau ba năm về nước không một mảnh bằng, để lại một người vợ Pháp và một đứa con ở lại Paris. Khi Ba Huy về nước ông Trạch kéo gia đình lên Sài Gòn đón quí tử. Chiếc xe Ford đang dùng tốt nhưng ông nói nhân sự kiện đặc biệt này phải sắm thêm một chiếc xe mới, cho xứng với học hàm, học vị của cậu Ba, cho rạng mặt Trần gia.
Trần Trinh Huy là người cao lớn, khoảng 1,70 m, lực lưỡng nhưng không cục mịch, trái lại dáng người rất thanh thoát, sang trọng, da đen, mày rậm... người đầy sinh lực. Tính tình Huy rất dễ dãi và hào phóng. Người trong nhà lầm lỗi, Huy cũng ít rầy la. Bà con ở xa lên thăm, Huy đều cho tiền. Tá điền không thấy Huy đòi nợ ai bao giờ, ai nghèo quá, năn nỉ Huy còn bớt lúa ruộng. Cho nên tá điền Bàu Sàng ít ai oán ghét Ba Huy.
Trong các mối quan hệ, Ba Huy là người khoáng đạt, không dè dặt và mưu toan gì. Thời đó, các cậu công tử lẫn điền chủ điều chơi với người Pháp thì rất khúm núm, nịnh nọt, gọi là "chơi thế". Riêng Ba Huy thì cứ "toa toa" "moa moa" sòng phẳng, ngang hàng. Nếu như trong mắt giới giang hồ tứ chiếng, Ba Huy là một người ngon nhất Nam bộ, thì trong mắt người Pháp, Huy được nể trọng vì có vợ đầm và mướn người Pháp làm công cho mình. Tánh của Ba Huy vị tha và coi tiền như rơm rác. Bút tích của Huy cho thấy tuy nét chữ bay bướm nhưng lại rất xấu, chứng tỏ đó là một con người thông minh, từng trải nhưng đường học vấn không đến nơi đến chốn.
Ba Huy cũng là người rất cởi mở, không cổ hủ, cực đoan như nhiều điền chủ khác. Ông từng ủng hộ Việt Minh một lúc 13.000 giạ lúa. Công tử Bạc Liêu còn tỏ ra là một con người tự trọng, đã hứa với Chính phủ những gì thì ông sẽ làm thế ấy. Ông đã hứa với người lãnh đạo cao nhất của Tỉnh ủy Bạc Liêu là giảm tô, không hợp tác với Pháp, gửi vải vóc thuốc men cho kháng chiến và thực hiện đúng như vậy. Thích hội hè, Ba Huy có lẽ là người tổ chức hội chợ và hội thi "Hoa hậu miệt đồng" đầu tiên ở đồng bằng sông Cửu Long.
Ba Huy có bốn người vợ và rất nhiều nhân tình. Người vợ đầu là người Pháp, trong thời gian Ba Huy đi học ở Paris. Về nước ông cưới một người vợ ở Bạc Liêu là Ngô Thị Đen. Bà này ở với Ba Huy sinh được người con gái là cô Hai Lưỡng. Sau cô Hai Lưỡng qua Pháp sống. Từ năm 1945, Ba Huy lên Sài Gòn ở hẳn. Ông lấy thêm một bà nữa (bà Nguyễn Thị Hai) và sinh được ba người con: Thảo, Nhơn, và Đức.
Bà cuối cùng, khoảng năm 1968, Ba Huy dọn về căn nhà phố đường Nguyễn Du, Sài Gòn. Mỗi sáng đứng trên lầu nhìn xuống, ông thấy một cô gái gánh nước đi qua đẹp quá. Hỏi thăm thì đựơc biết cô gái đó là con ông già làm nghề sửa xe đạp. Ba Huy đến nhà ông già xin "đổi" căn nhà đó lấy cô gái. Ông già và cô gái sau khi bàn bạc đồng ý. Và đó là người vợ cuối cùng của Ba Huy, kém ông đến 50 tuổi. Bà sống chung thủy với ông đến ngày ông qua đời. Họ có ba con trai và một con gái tên Hoàn, Toàn, Trinh và Nữ.
Ba Huy còn rất nhiều con với các nhân tình. Tuy những người đó không phải vợ chính thức nhưng con cái của họ đều được Trần gia thừa nhận. Ông mất năm 1973 ở Sài Gòn và được đưa về an táng trong phần mộ gia đình tại ấp Cái Dầy, xã Châu Hưng, huyện Vĩnh Lợi, Bạc Liêu.
Những Giai Thoại:
Ông Trạch giao cho Ba Huy việc trông coi điền sản. Huy đi vào các sở điền bằng xe hơi hoặc ca nô. Việc này là một sự kiện đặc biệt, Ba Huy đi đến đâu tá điền ùn ùn kéo đến xem, vì cả đời họ chưa được nhìn thấy xe hơi, ca nô bao giờ. Đi đòi nợ các tỉnh, Ba Huy dùng chiếc Ford Vedette, còn đi chơi ông có chiếc Peugeot thể thao, sản xuất năm 1922. Loại xe đó cả miền Nam khi ấy chỉ có hai chiếc, chiếc kia là của vua Bảo Đại.
Ba Huy còn thuê một người Pháp làm công cho mình. Đó là ông Henri, chồng bà Tư Nhớt, một người trong gia tộc Trần Trinh. Ông này làm quản lý, điều hành gia sản cho ông Hội Đồng Trạch, dưới quyền ba Huy. Theo hợp đồng, quản lý được hưỏng 10% trên tổng số lợi tức thu được hàng năm. Chính vì vậy ông Henri mới bỏ "mẫu quốc" qua làm mướn cho bên vợ, mãi đến tháng 4 năm 1975 mới về nước.
Công tử Bạc Liêu rất mê nghề võ. Vào nữa đầu thế kỷ 20, học võ là một cái mốt với nhận thức: Học võ để nâng cao cái khí phách thượng võ của kẻ anh hào. Ba Huy không học võ Tây hay võ Ta mà học võ Xiêm. Ông ta đã cất công qua Xiêm mướn một ông thầy thượng hạng về dạy cho mình và Tám Bò, là em út của ông ta.
Một sự kiện chấn động cả nước khi đó là Ba Huy đi thăm ruộng bằng máy bay. Và lúc ấy cả Việt Nam cũng chỉ có 2 chiếc là của Công tử Bạc Liêu và của vua Bảo Đại. Một lần bay qua thăm điền Rạch Giá, Công tử Bạc Liêu hứng chí bay ra biển Hà Tiên chơi, cứ bay mải miết cho đến khi kim báo xăng không còn nhiên liệu, buộc lòng Ba Huy phải đáp khẩn cấp. Xuống đất, Ba Huy hoảng hốt biết mình đã bay lọt sang tận nước Xiêm. Trần Trinh Huy bị Nhà nước Xiêm bắt giữ và phạt 200 ngàn giạ lúa. Ông Hội đồng Trạch phải chở một đoàn ghe chở lúa thật dài qua tận Xiêm để chuộc quí tử về. Ông là người Việt Nam đầu tiên sở hữu máy bay tư nhân và sân bay tư nhân.
Ba Huy sinh hoạt cực kỳ sang trọng và xa hoa. Ra đường là đóng bộ veston, thứ hàng đắt tiền nhất thời đó. Thói quen của Ba Huy là ăn sáng kiểu Tây, trưa ăn cơm Tàu, chiều ăn cơm Tây. Mỗi lần từ Bạc Liêu đi Sài Gòn là ông ta ngồi trên chiếc xe cáu cạnh, có tài xế lái. Khi lên Sài Gòn ít khi Công tử Bạc Liêu ở ngôi biệt thự của Trần gia mà vào một trong những khách sạn nổi tiếng sang trọng ở Sài Gòn. Có khi hứng chí đi dạo mát Ba Huy thuê cả chục chiếc xe kéo, ông ta ngồi một chiếc, những chiếc còn lại chở những món đồ như mũ, cây "can"...
Công tử Bạc Liêu là một người luôn xê dịch và rất ham vui, những cuộc ăn chơi nổ trời diễn ra, Trần Trinh Huy lặn ngụp trong những bàn tiệc với rượu sâm banh. Mỗi chủ nhật ông đều đi nghỉ cuối tuần ở Vũng Tàu, Đà Lạt hoặc về Cần Thơ. Ba Huy cũng là một kẻ mê cờ bạc, có những khi ông đánh một cây bài 30.000 đồng, trong khi lúa chỉ 1,7 đồng một giạ, lương của Thống đốc Nam Kỳ chưa tới 3.000 đồng một tháng.
Hắc Công Tử và Bạch Công Tử - Kỳ Phùng Địch Thủ
Bạch công tử là Lê Công Phước hay còn gọi là George Phước, con trai của Đốc phủ Lê Công Sủng, người ở làng Điều Hòa, tỉnh Mỹ Tho. Phước cũng là một tay chơi nổi tiếng khi đó, da trắng nên được gọi Bạch công tử để phân biệt với Ba Huy. George Phước say mê cải lương, từng qua Pháp học về sân khấu. Về nước Phước cùng một người khác bỏ tiền lập hai gánh hát Phước Chương và Huỳnh Kỳ nổi tiếng với cô đào chánh đệ nhất tài sắc đương thời là cô Bảy Phùng Há và một cô đào tài sắc khác là Năm Phỉ. Cùng nổi tiếng ăn chơi, Bạch công tử và Hắc công tử trở thành kỳ phùng địch thủ.
![]() |
Hắc công tử Trần Trinh Huy (trái) và Bạch công tử Phước George |
Hai người vừa xuống đến quán Bungalows ở Cần Thơ, máy xe chưa nguội thì chiếc Sport tám máy của Hắc Công Tử cũng vừa tới, thắng cái két. Cả hai lâm vào cảnh khó xử, việc chiếm được mỹ nhân chỉ còn cậy vào tài chinh phục của bản thân mình. Cả ba cùng đưa nhau vào khách sạn. Bạch Công tử lột chiếc cà rá hột xoàn trị giá 3.000 đồng vào thời đó để trên bàn trước khi vào phòng tắm. Lúc trở ra, thấy cô Ba Trà đeo thử nó trên tay, Bạch Công tử liền lên tiếng tặng luôn. Sau đó Hắc Công tử đã mua tặng cô Ba Trà một chiếc nhẫn trị giá gấp đôi..."
Một lần, đoàn Huỳnh Kỳ cùng cô Bảy Phùng Há về Bạc Liêu biểu diễn, Bạch công tử mời Hắc công tử đến xem. Đang xem, Bạch công tử móc thuốc hút, vô ý làm rớt tờ giấy con công , Bạch công tử cuối xuống tìm kiếm. Hắc công tử thấy vậy hỏi:
- Chú kiếm gì vậy?
- Tôi kiếm tờ con công.
Hắc công tử mỉm cười nói:
- Để tôi đốt đuốc cho chú kiếm.
Nói rồi Hắc công tử móc tờ giấy bạc bộ lư châm lửa soi cho Bạch công tử kiếm. Bị một vố quá nặng, vãn tuồng, Bạch công tử mới nói:
- Toa chơi moa một cú đau quá. Bây giờ nếu toa ngon, toa với moa cân mỗi người ký đậu xanh, rồi lấy tiền nấu, ai sôi trước người ấy thắng? - Hắc Công Tử đáp "Chú cũng vậy nữa kìa! Ấy dà, Chú muốn chơi hả? Được,vậy để tôi chơi cho chú chết luôn!"
Tối hôm sau, Hắc công tử cho trải thảm đỏ từ ngoài cổng vào tận thềm nhà cứ mỗi thước cho một gia nhân cầm đuốc soi đường, nghinh đón phái đoàn của Bạch công tử. Cuộc thi được tổ chức ở đại sảnh nhà lớn của Trần gia. Lửa của tiền giấy thì rất kém nhiệt, chỉ cháy nhỏ, vì thế họ nấu chè rất lâu trong sự căng thẳng của rất nhiều người chứng kiến. Trán ai cũng rịn mồ hôi hột, nhất là những người trong gia đình họ Trần. Cuối cùng, nồi chè Bạch công tử sôi trước, Hắc công tử đành thua cuộc. Nhưng Ba Huy tuyên bố rằng ông ta thua trong danh dự.
Công tử Bạc Liêu - Sự thật và giai thoại
“Tôi đã đến cái xứ sở quê mùa ấy vào một đêm cuối mùa mưa… Cảnh tượng vẫn một màu sắc Nam kỳ với những chiếc xe lôi cục mịch, với những chiếc xe kéo cao lêu nghêu, chật hẹp và dài cán; đàng xa, trên sông, thấp thoáng những chiếc ghe bầu, ghe lườn. Chính tỉnh lỵ không có gì là lớn. Vỏn vẹn chỉ có dãy phố quanh chợ và bến sông là vui vẻ, tấp nập. Tất cả, có lẽ chỉ bằng một khu chợ Gạo Hà Nội. Nhưng nhờ trong xứ sở lúa sản xuất nhiều, đường giao thông lại tiện lợi nên đã thành một tâm điểm kinh tế rất năng động.
…Dù sao, đừng tưởng rằng châu thành Bạc Liêu buồn tẻ như những tỉnh nhỏ ngoài Bắc mình. Trái lại, Bạc Liêu là một đất ăn chơi. Trong châu thành có tới ba rạp chiếu bóng và một rạp hát nguy nga hơn những rạp hát Hà thành nhiều. Nhà cửa cho thuê hiếm và không được lịch sự, nhưng ở bên kia sông, về phía nhà thờ, có nhiều vi-la mới xây của mấy vị điền chủ coi vậy cũng đẹp mắt. Chợ lập giáp sông, không đồ sộ như chợ Bến Thành – Sài Gòn, không rộng rãi như chợ Đồng Xuân – Hà Nội, nhưng tươi sáng, sạch sẽ hơn. Tết đến, trong mấy ngày chợ đêm, ghe ở các tỉnh chở những hàng lên bán tấp nập, ồn ào không kém gì những thành phố lớn…”.
Trên đây là trích đoạn bài báo “Đây, Bạc Liêu” của Tạ Như Khuê, đăng trên tuần báo Thanh Nghị, ra ngày 11/3/1994. Đó là một cái nhìn của một nhà báo ở Hà Nội đối với quang cảnh kinh tế – xã hội của Bạc Liêu vào nửa đầu thế kỷ 20. Ông gọi “Bạc Liêu là một đất ăn chơi…”. Hẳn nhiên, đất ăn chơi thì phải có những con người ăn chơi.
Năm 1895, dân số của tỉnh Bạc Liêu (tính luôn tỉnh Cà Mau ngày nay) chỉ có 46.498 người. Điều đó nói lên rằng, đất Bạc Liêu vẫn chưa được khai thác bao nhiêu, phần lớn còn lại vẫn còn hoang địa. Trước năm 1882, con đường từ Bạc Liêu đi Cà Mau chỉ là một con lung ngoằn ngoèo nằm giữa đồng cỏ bao la, có đoạn ghe đi không được phải dùng trâu kéo. Mùa hạn, từ Cà Mau lên Bạc Liêu phải mất ba ngày. Sách “Lịch sử khẩn hoang miền Nam” của Sơn Nam viết: “Nhà nước giúp dân bằng việc cặm cây làm dấu chỉ đường đi… Năm 1902 trở về trước, có rất nhiều người tham vọng đến đây khai phá để làm điền chủ đành phải cuốn nóp ra đi vì đất đai quá phèn, quá úng, không có kênh mương thoát nước xổ phèn, làm 2 – 3 năm vẫn chưa thu được huê lợi. Một người đến Tân Hưng khẩn 160 mẫu đất, thiếu thuế Nhà nước rồi bị bỏ tù, hương chức làm dán yết thị, rao bán đất ấy để bù tiền thuế nhưng không ai thèm mua. Nhiều người khai phá “đất ráng” ven sông cho tiện việc xổ nước thì đến vụ lúa trổ, nước mặn tràn lên lúa trổ cờ trắng, không thu hoạch được”.
Nhà văn Sơn Nam, trong sách ấy, đã đánh giá rằng: “Mức trưởng thành của Bạc Liêu, khi chuyển mình đóng góp vào vựa lúa miền Nam, có thể đánh dấu vào năm 1914…”. Đó là lúc hệ thống kênh thủy lợi Cà Mau – Bạc Liêu, Quản Lộ – Phụng Hiệp… phát huy tác dụng. Vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, với thâm ý vơ vét thuộc địa, người Pháp đã bắt nhân công bản xứ cho cơ giới (tàu cuốc, tàu xáng) của giới tư bản Pháp đào một hệ thống thủy lợi chằng chịt ở miệt Hậu Giang (theo cách gọi vào đầu thế kỷ, vùng này được tính từ tả ngạn sông Mê Kông trở xuống mũi Cà Mau). Đây là một cuộc làm thủy lợi lớn nhất trong lịch sử làm nông nghiệp ở Đồng bằng sông Cửu Long. Vì thế, nó giải phóng năng lực cho một vùng đất rộng lớn của miền Hậu Giang cò bay thẳng cánh, bằng việc đưa nước ngọt từ sông Mê Kông về và tháo úng xổ phèn ra biển Đông. Tại Bạc Liêu, cơn lụt thường niên vào tháng 8 âm lịch ngập đến bụng trâu đã được giải quyết. Việc tháo úng cho những cánh đồng cầm thủy, phèn vàng quánh của vùng Bắc Quốc lộ 1A ngày nay cũng được giải quyết, bởi đã có con kênh Gành Hào và các kênh trục như: Số 2, Cầu Sập – Ngan Dừa, Hộ Phòng – Phó Sinh… để tiêu thoát nước ra biển Đông. Ngoài ra, hệ thống kênh mương còn làm cho việc vận chuyển lúa gạo dễ dàng hơn. Đất đai trở nên có năng suất và có giá trị hơn, người ở nơi khác đến khẩn đất ngày càng nhiều thêm. Diện tích khẩn hoang tăng rất nhanh, năm 1927, diện tích sản xuất lúa của Bạc Liêu đứng thứ nhì Nam phần, chỉ sau Rạch Giá.
Thế nhưng, nếu chính sách điền địa thời đàng cựu của các chúa Nguyễn là ai có nhân lực, vật lực thì tự do là trưng khẩn. Và khi khai hoang một diện tích đủ thành lập làng mới thì cho người đó làm trưởng làng (Hương cả) thì người Pháp (miệng thì rêu rao đổi mới chính sách điền địa) vẫn giữ như cũ, với mục đích thu thuế nhanh. Chính sách đó đã tạo ra những ưu thế của những người có tiền của và quyền thế. Họ nắm rõ kế hoạch đào kênh nên chiếm trước những vùng đất mà kênh xáng đã đào hoặc chuẩn bị đào ngang. Họ dùng quyền thế để “khẩn hoang trên giấy”. Nghĩa là cướp đất của người đi khẩn hoang bằng cách xin chính quyền thực dân cấp đất cho họ trên các mảnh đất mà lưu dân khẩn hoang đã khai thác rồi. Thế nên, thành quả của công cuộc làm thủy lợi nêu trên chỉ tập trung vào tay một nhóm người có của cải và thế lực. Từ đó, một tầng lớp gọi là đại điền chủ ở Bạc Liêu ra đời.
Các nhà khảo cứu lịch sử đánh giá rằng, họ vừa là con đẻ của thực dân phong kiến đồng thời là sản phẩm của kinh đào miền Hậu Giang. Những tên tuổi nổi tiếng khắp Nam kỳ lúc bấy giờ gồm: Người đứng số một là Trần Trinh Trạch, chiếm 110.000 mẫu ruộng (có tài liệu đến 145.000 mẫu) và gần 100.000 mẫu ruộng muối (có tài liệu chỉ 10.000 mẫu); đứng thứ hai là Vưu Tụng, chiếm 75.000 mẫu; thứ ba là Châu Oai, chiếm 40.000 mẫu; thứ tư là Cao Minh Thạnh (Đốc phủ sứ và là thân sinh của nhân sĩ Cao Triều Phát); kế đến là Huỳnh Hữu Phước và hai anh em là Mai Hữu Quì, Mai Hữu Kiến; kế nữa là Quách Ngọc Đống (còn gọi là Chủ Đống). Ngoài ra, còn 8 chủ điền Tây khác. Có một tổng kết cho rằng, thời Pháp thuộc, tỉnh Bạc Liêu là nơi có số lượng địa chủ ít nhất nước (chưa đầy 2%), nhưng cũng là nơi địa chủ chiếm nhiều ruộng đất nhất nước (trên 95%).
Lúc bấy giờ, để được hưởng đặc quyền trong chính sách điền địa của người Pháp, hầu hết các đại điền chủ ở Bạc Liêu đều theo quốc tịch Pháp, người ta gọi là “vô dân Tây”. Và theo quy định của chính quyền thực dân, con của các gia đình này phải vào học các trường do Pháp dạy, để học nói tiếng Pháp, tiếp nhận văn hóa Pháp. Từ đó, xuất hiện phong trào đưa con lên Sài Gòn hoặc qua Pháp quốc học trường Tây. Đó cũng là cái mốt của các nhà quyền quý lúc bấy giờ. Hầu hết các đại điền chủ ở Bạc Liêu đều mua nhà trên Sài Gòn để đưa con cái lên đó ở và học. Lớp con cháu của họ sinh ra là nằm trên nhung lụa, thừa mứa tiền của, đồng tiền làm ra không có mồ hôi và nước mắt nên họ không biết quý đồng tiền. Lại thời buổi thực dụng, thực dân khuếch trương ăn chơi… Thế là họ đua nhau quăng tiền qua cửa sổ để ăn chơi cho sướng tấm thân và tạo danh tiếng. Huỳnh Văn Phước, gọi theo tiếng Hoa là Dù Hột, sau này gọi là Bang biện Hột, là con ông chủ Chá – một đại địa chủ của Bạc Liêu (Phước có người chị ruột cất ngôi chùa mà hiện nay ta gọi là chùa Cô Hai Ngó). Phước mặc bà ba soan trắng, đi giày Tàu, đội nón hồng mao (nón cao su cứng kiểu Anh) dành cho xứ nhiệt đới, làm tại Singapore), cầm gậy Nhật Bổn, hút xì-gà Ma-ní (Philippines). Một lần ngủ ở khách sạn Sài Gòn, sáng bước xuống đường, đám xe kéo lại giành chở ông vì Phước trả tiền không cần thối lại. Phước khó xử rồi bảo: “Thôi thì đi hết”. Thế là một xe chở Phước, một xe chở đôi giày, một xe chở cái nón, xe khác lại chở cù nghéo… Đoàn xe đi vòng chợ Sài Gòn, người ta bu đến coi, có người bảo: “Thằng cha này điên”. Nhưng đám xe kéo nói nhỏ với họ: “Công tử Bạc Liêu đó!”. Thế là từ đó tiếng tăm công tử Bạc Liêu phóng khoáng phong lưu bắt đầu nổi lên (sau này có một số người gán ghép giai thoại trên cho Trần Trinh Huy là không đúng sự thật).
Các cậu ấm, cô chiêu đã nhanh chóng học đòi, gia nhập các mốt thời thượng lúc bấy giờ là nhảy đầm, chạy xe hơi, hút á phiện… làm nổi đình nổi đám ở Sài Gòn. Những tên tuổi nổi danh thời đó là: Dù Hội, Hai Lũy, Ba Cân, Hai Đinh… Từ đó thành ngữ Công tử Bạc Liêu ra đời. Nó nổi tiếng và tồn tại để ám chỉ một lối sống phong lưu. Hồi nửa đầu thế kỷ 20, dân Sài Gòn và lục tỉnh gọi là “nhóm công tử Bạc Liêu” chứ không phải chỉ có Công tử Bạc Liêu như bây giờ.
Thế nhưng, các tên tuổi trên lập tức bị lu mờ khi Trần Trinh Huy xuất hiện. Lối sống phóng túng, phong lưu của Trần Trinh Huy đã làm nên những giai thoại như đốt tiền nấu chè… Trần Trinh Huy được mệnh danh là người “ngon” nhất Nam bộ, là hiện thân, là linh hồn của Công tử Bạc Liêu. Hễ ai nhắc tới Công tử Bạc Liêu thì người đương thời nghĩ rằng đã chỉ đích danh Trần Trinh Huy. Vậy Trần Trinh Huy là ai, tiền tài, thế lực đến cỡ nào mà ăn chơi đến “danh bất như truyền” như thế?
Trần Trinh Huy là con trai thứ ba của Trần Trinh Trạch (theo cách gọi của Nam bộ), một đại điền chủ số một vùng Hậu Giang, nếu không muốn nói cả Nam bộ. Theo sách “Tây Nam bộ 30 năm kháng chiến”, Trần Trinh Trạch là đại điền chủ lớn nhất Việt Nam, có ruộng ở Nam kỳ, Trung kỳ. Trần Trinh Trạch sinh năm 1872 tại Vĩnh Lợi, Bạc Liêu, chết ngày 14/3/1942, an táng tại Cái Dầy, thuộc xã Châu Hưng, huyện Vĩnh Lợi ngày nay. Khu mộ ấy dân gian thường gọi là mộ ông lớn Trạch.
Sinh thời, ông Trần Trinh Trạch sống cần kiệm, thường mặc bộ đồ vải trắng phong phanh, ngủ riêng vì mang bệnh suyễn kinh niên. Thế nhưng, đó cũng chính là con người gầy dựng cơ nghiệp của dòng họ Trần Trinh nức tiếng Nam kỳ. Mộ ông có khắc một bài thơ trên đá hoa cương đầy kiêu hãnh:
Đất nhờ người nổi tiếng
Người nhờ đức nên danh
Nhớ tôn ông xưa
Tánh thánh thông minh
Tư trời tài trí
Lúc tuổi trẻ ra làm thư ký
Nơi pháp đình pháp lý làu thông
Đến thời kỳ quản hạt Hội đồng
Ra tranh cử một thời luôn ba khóa
Mười hai năm nghị trường ngôn luận khá
Chức Hội đồng tư vấn cũng trao ngay
Việc lợi dân ích quốc những bao ngày
Bội tinh thưởng Ngũ đẳng tứ, tam, liên tiếp
Khi đấng thiên công tác hiệp
Sánh duyên cùng bá hộ Phan Công
Cuộc trăm năm kết một chữ đồng
Lo xây dựng nưng cao nền hạnh phúc
Việc trước hết chăm lo bề cục dục
Con trai ba, con gái có bốn người
Như huệ, lan, châu ngọc ở trên trời
Duyên phối ngẫu đẹp cỡi rồng sánh phượng
Cuộc tình nghĩa an toàn những trang cao thượng
Nào kỹ sư, đốc phủ sứ, phú hào
Cho lưỡng du bằng hữu chi giao
Đều là bậc thế gia và quyền quý
Thật trời đặt sinh tôn ông hữu ý
Hưởng sang giàu vinh hiển trọn đời
Câu ngũ phước, chữ tam gia đầy đủ.
Có người nói rằng, Trần Trinh Trạch sinh ra trong một gia đình tầm thường, là người Hoa sang Bạc Liêu định cư tại Cái Dầy (xã Châu Hưng ngày nay) khá lâu đời. Thưở nhỏ, Trần Trinh Trạch làm mướn cho một điền chủ. Gia đình điền chủ này nhập quốc tịch Pháp. Theo quy định của nhà nước thực dân thì con cái của các gia đình đó phải học tiếng Pháp. Lúc bấy giờ truyền thống giáo dục nho học hãy còn phổ biến, người ta rất ngại học chữ Pháp, thế là Trần Trinh Trạch được gia đình này cho đi học thay thế con của họ. Và chính điều này đã tạo cho Trần Trinh Trạch một nấc thang trên con đường tiến thân sau này. Trần Trinh Trạch có trình độ học khoảng lớp 7 – 8 ngày nay, nói và viết được tiếng Pháp. Thời ấy, dân bản xứ có trình độ cỡ đó rất hiếm. Thế là Trần Trinh Trạch được chính quyền thực dân tuyển vào làm thư ký “hậu bổ” tại Tòa bố (Tòa hành chính tỉnh). Có lúc, Trần Trinh Trạch được “Tây nhà đoan” giao phụ trách Công xi rượu. Thời đó, nhà nước thực dân thực hiện chế độ độc quyền khai thác và sản xuất rượu, dân mà nấu rượu thì coi là phạm luật. Trần Trinh Trạch được giao cho cái quyền đi bắt rượu lậu. Bắt 10 người thì về báo cáo 5 người. Chính vì thế mà có người nói Trần Trinh Trạch tích lũy vốn đầu điên là do ăn hối lộ khi phụ trách quản lý Công xi rượu của Pháp.
Có một lúc, chính quyền thực dân giao cho Trần Trinh Trạch làm thư ký tại Tòa bố phụ trách điền địa. Nên nhớ rằng, chính sách điền địa của Pháp lúc bấy giờ rất lỏng lẻo, nó càng lỏng lẻo hơn so với miệt Tiền Giang bởi Bạc Liêu là một trong những vùng đất khai thác muộn màng nhất, dân đi khai phá chủ yếu là tự phát, cho nên việc lập bộ để cấp bằng khoán chính rất chậm chạp. Điều đó đã tạo ra thời cơ cho những người có thế lực và tiền bạc khẩn hoang trên giấy tờ. Nghĩa là họ lèo lách để chính quyền thực dân cấp cho họ bằng khoán chính thức trên những mảnh đất rộng lớn mà nhà nước chưa cấp bằng khoán chính thức cho ai, nhưng trên thực tế thì mảnh ruộng ấy đã có dân khẩn hoang nghèo đến khai hoang, làm ăn lâu rồi. Đây là một thủ đoạn cướp đất rất phổ biến của các thế lực giàu có đối với nông dân Bạc Liêu ngày xưa, mà vụ án đồng Nọc Nạng là một minh chứng sinh động. Cho nên, có thể nói, Trần Trinh Trạch đang được thực dân khoác cho một vai trò vô cùng béo bở. Khó có thể loại được khả năng chạy chọt giấy tờ để ăn hối lộ và tự cấp đất cho mình. Một bằng chứng cho thấy, năm 1911, Hồ Biểu Chánh – một tiểu thuyết gia tầm cỡ của miền Nam lúc bấy giờ – đến làm Ký lục ở Bạc Liêu đã nhận xét rằng, nghề dễ làm giàu lúc đó ở Bạc Liêu là ăn hối lộ. Và ông viết: “Hồi đó, Tòa bố Bạc Liêu không khác nào chợ bán chè cháo, hễ tiền trao thì cháo múc…”. Tại thời điểm này, Trần Trinh Trạch đã mua được một diện tích đất khá lớn ở Cái Dầy…
Lúc này, có một địa chủ giàu khét tiếng ở Bạc Liêu tên là Phan Hộ Biết, tục danh là Bá hộ Bì, thường đến Tòa bố Bạc Liêu để nộp thuế và làm các thủ tục sở hữu đất đai đã ngắm nghía và đánh tiếng gả con gái cho Trần Trinh Trạch. Ông này giàu đến cỡ mà sách “Lịch sử khẩn hoang miền Nam” của nhà văn Sơn Nam ghi: “Năm 1894, ông Phan Hộ Biết đâm đơn xin lập làng mới tên gọi là Vĩnh Hưng (xã Vĩnh Hưng, huyện Vĩnh Lợi ngày nay). Dân do ông ta quy tụ về và chịu trách nhiệm đóng thuế thân cho họ. Bá hộ Bì đã bỏ tiền ra xây cất nhà việc (công sở làng) trị giá 200 đồng …”. “Thế nhưng, một người giàu có tiếng khác đã nhảy vào tranh giành khai thác vùng này với ông ta, tên gọi là Bành Trấn. Bành Trấn hứa với chính quyền thực dân rằng, ông ta chịu đóng thuế cho 300 người và 1.500 mẫu đất nếu Toàn quyền Đông Dương cho ông ta sở hữu 1.000 mẫu”. Cuối cùng, Toàn quyền Đông Dương đã chấp nhận đơn của Bành Trấn.
Phải chăng, chính vì lý do này mà Bá hộ Bì đã chọn một thư ký phụ trách điền địa của Tòa bố làm con rể để hậu thuẫn trong việc làm ăn của ông ta (?). Phan Hộ Biết đã gả con gái của mình là Phan Thị Muồi (sinh năm 1873, chết ngày 28/1/1947) cho Trần Trinh Trạch.
Bá hộ Bì là một người rất giỏi làm ăn, ngoài việc là đại điền chủ, ông còn được mệnh danh là “vua” lúa gạo Nam kỳ thời bấy giờ. Khi Pháp mở thương cảng Sài Gòn, Bá hộ Bì đã năng động mua hơn chục chiếc ghe chài để thu mua lúa gạo vùng Bạc Liêu chở về Sài Gòn. Và ông là chủ sở hữu hầu hết các sở muối từ Gành Hào cho đến Vĩnh Châu. Từ đó, Trần Trinh Trạch được bên vợ hậu thuẫn cho làm ăn. Thế nên, có người trong gia tộc họ Trần đã nói rằng mầm mống giàu có của Trần Trinh Trạch là do bên vợ.
Bá hộ Bì có đến 7 vợ sống chung. Lớp con cháu của ông sau này không ai chí thú làm ăn mà chỉ lo ăn chơi, phá của. Bá hộ Bì chia điền sản cho các con thì không bao lâu nó chạy về tay Trần Trinh Trạch, bởi lúc này ông Trạch là người cho vay và những người anh em vợ của ông đã đến cầm cố nào đất ruộng, đất muối, ghe chài. Giống như Trần Trinh Trạch là người biết thừa kế duy nhất của Phan Hộ Biết.
Khi đã giàu có rồi, Trần Trinh Trạch bắt đầu nghĩ đến việc vinh hiển bằng con đường quan chức. Vào những năm 1929 – 1933, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới xảy ra và cũng là cuộc khủng hoảng kinh tế sâu sắc nhất trong lịch sử chủ nghĩa tư bản. Mức sản xuất toàn bộ thế giới tư bản chủ nghĩa giảm 42%, trong đó tư liệu sản xuất giảm 53%. Tại Pháp, cuộc khủng hoảng diễn ra hết sức trầm trọng: công nghiệp giảm 1/3; nông nghiệp giảm 2/5; ngoại thương giảm 3/5. Chính vì thế, chính sách của thực dân là lấy của cải của thuộc địa đem về nuôi mẫu quốc. Thực dân Pháp chiêu dụ các điền chủ để gom góp của cải bằng việc bán cho họ các chức hàm và phong chức tước lớn nhỏ tùy vào mức tiền ủng hộ. Những người trong gia tộc Trần Trinh kể rằng, Trần Trinh Trạch đã ủng hộ nước Pháp một khoản tiền to, to tới cỡ mẫu quốc gắn cho Trần Trinh Trạch mề đay Ngũ đẳng Bội tinh và ban tặng một thanh gươm gia bảo. Theo ông Phan Kim Khánh, cháu ngoại của Trần Trinh Trạch, khoảng năm 1960, đại sứ quán Pháp đến gặp ông Hen-ri, quản gia của nhà họ Trần xin gặp chi trưởng Trần gia để thương lượng mua lại thanh gươm với giá bao nhiêu cũng được. Vụ thương lượng này bất thành và nghe đâu thanh gươm ấy do hai người con của Trần Trinh Trạch là Trần Trinh Đinh và Trần Trinh Huy giữ, nay thì không biết nó thất lạc nơi nào. Còn tấm mề đay Ngũ đẳng Bội tinh thì sức mạnh vô song. Hễ ông Trạch mà đeo vào thì dù có Tỉnh trưởng, quan mật thám hay thầy đội Pháp cũng phải nghiêm chào.
Ngoài hai món trên, Trần Trinh Trạch được Toàn quyền Đông Dương phong chức “Đại biểu hội đồng tư vấn mật vụ viện”. Chức danh này là theo cách gọi của một số người trong gia tộc Trần Trinh nên không biết có chính xác hay không (?). Và họ mô tả rằng, nó lớn hơn Hội đồng quản hạt. Khi họp là họp với Toàn quyền Đông Dương. Nếu như Hội đồng quản hạt là cấp tỉnh thì chức danh của Hội đồng Trạch ngang với đại biểu Quốc hội bây giờ. Người ta kể thêm rằng, với chức danh này, Hội đồng Trạch được quyền gặp trực tiếp Toàn quyền Đông Dương bất cứ lúc nào chớ không cần phải đến phiên họp. Chính vì thế mà các quan bố chánh (chủ tỉnh) được điều về tỉnh Bạc Liêu là phải đến chào ông Trạch trước tiên. Họ rất kiêng dè ông Trạch vì nếu không thì bị thuyên chuyển đi chỗ khác. Những người vốn là kẻ ăn người ở trong Trần gia lúc bấy giờ còn sống kể rằng, cứ một tuần lễ là ông cò Pháp bắt tù nhân đến quét dọn, thụt cống rãnh cho nhà ông Trạch.
Chỉ bấy nhiêu thôi cũng thấy được thế lực to lớn của Trần Trinh Trạch. Thời thực dân, quyền lực và tiền tài là một thứ song hành. Uy thế cỡ đó, ông Trạch muốn gì không được.
Ngày xưa, nhiều ông Hội đồng quản hạt, quan phủ, quan huyện đều lợi dụng quyền thế của mình để khai hoang trên giấy. Nghĩa là xin chính quyền thực dân cấp cho mình bằng khoán những mảnh đất tốt, mặc dù đã có người khai phá. Họ cướp đất tá điền, biến họ từ chủ ruộng làm kiếp tá điền. Đồng thời, chính sách điền địa của thực dân lúc bấy giờ là để thu thuế nhanh, Toàn quyền Đu-me đã ký nhiều nghị định cấp từng mảnh đất to, cỡ 1.000ha cho giới thân Pháp (các đại địa chủ, tư bản Pháp vì giới này có tiền của, nhân lực khai thác được nhanh). Nhiều người lo hối lộ cho quan chủ tỉnh cũng được cấp đất và ưu tiên cho những mảnh đất gần kinh xáng sắp sửa đào, trong khi đó dân nghèo hoàn toàn mù tịt về quy hoạch thủy lợi. Đây cũng là một yếu tố nằm trong khả năng bao chiếm đất đai của ông Trạch.
Còn một yếu tố nữa không thể nói đến là vào những năm nền kinh tế tư bản khủng hoảng, cụ Bùi Thế Mỹ, tức nhà văn Lan Đình đã viết:
“Nghèo như thằng mình còn chạy quýnh
Giàu như ông Trạch cũng buồn thiu”.
Những năm này, một số điền chủ vay tiền Nhà nước hoặc vay của Chà-và và bị ảnh hưởng cuộc khủng hoảng, cụ thể là lúa gạo rất rẻ đã phải bán đổ bán tháo điền đất để trả nợ. Còn ông Hội thì chẳng “buồn thiu” như người ta nói mà ngược lại, ông trụ vững như thành. Đã thế, nó còn là một cơ hội cho ông và ông Trạch tranh thủ thời cơ bỏ tiền ra mua điền đất với giá rẻ mạt. Sau đó, giá đất lên cao làm cho ông giàu lại càng giàu, điền đất cứ nối rộng thêm. Thực tế, ông Trạch đã có đến 74 sở điền nằm tại Vĩnh Châu, Vĩnh Lợi và còn ở Rạch Giá, Cà Mau, Sóc Trăng, Cần Thơ… với diện tích lên đến hơn 100.000ha. Với số ruộng này, Trần Trinh Trạch là một đại điền chủ có nhiều ruộng đất nhất miền Hậu Giang.
Có lời bình phẩm trong giới bình dân rằng, Hội đồng Trạch là một người nhân đức. Hễ trong điền của ông, con gái được gả ra khỏi điền thì ông cho một đồng (một đồng tương đương 5 giạ lúa lúc bấy giờ), còn nếu lấy chồng về hoặc lấy vợ về thì ông cho hai đồng. Một chuyện khác, phu ở đồn điền cao su miền Đông vì trốn thuế, nợ, bỏ nghề cạo mủ cao su về miệt Hậu Giang làm tá điền cho ông, khi chủ điền cao su phát hiện đòi bắt, thì ông Trạch xuất hiện nhiều ghe chài lúa mang đi trả nợ cho họ. Nhìn bề ngoài, quả là ông Trạch nhân đức, nhưng nếu nhìn cặn kẽ thì sẽ nhận ra thâm ý của ông.
Ruộng đồng của ông Trạch cò bay thẳng cánh, rất cần một nguồn nhân lực dồi dào để khai thác. Ông Trạch cần thu phục nhân tâm để tá điền gắn bó với điền đất của ông, hết lòng hết dạ làm giàu cho ông. Hơn nữa, lúc bấy giờ có những điền Tây áp dụng “cơ chế” thoáng hơn một chút, nên nhiều điền chủ rất sợ tá điền của mình bỏ qua làm ruộng ở các điền Tây. Dù giàu sang, nhân đức cỡ nào, ông Trạch cũng phải thực hiện phương cách của giai cấp cường hào địa chủ lúc bấy giờ là bóc lột tá điền đến tận xương tủy. Những tá điền của ông ở Bàu Sàng, Hào Xén bây giờ còn sống đã kể rằng, thời đó, 2 – 3 giờ đêm, họ đã nghe kèn hiệu lệnh gọi tá điền ra đồng phát ra từ nhà lầu. Sau tiếng kèn là bọn tằng khạo đạp xe theo những xóm làng đìu hiu, tăm tối để xem nhà nào không đốt đèn ra đồng thì sẽ ghi sổ và trừ vào lương.
Và cũng giống như các địa chủ khác, ngoài việc phát canh thu tô, Trần Trinh Trạch còn cho vay. Hồi mới dựng nghiệp (thuở còn làm thầy ký tó), được sự giúp đỡ của quan tham biện (bởi ông Trạch là thân tín của quan chủ tỉnh), ông Trạch lên Sài Gòn vay tiền trong giới xã tri của người Ấn với lãi suất thấp, đem về Bạc Liêu cho bọn trung nông hoặc phú nông gặp khó khăn vay với lãi suất cao hơn. Ai không tiền trả thì thêm chút tiền mặt rồi bắt họ ký bán đất, bán nhà cho ông. Còn tá điền thì ông Trạch cho vay lời 3 phân bằng cách tính như sau: Nếu vay 100 đồng, cuối năm phải trả 136 đồng. Ai không trả nổi phải làm giấy nợ khác xem như thiếu 184 đồng. Cứ như vậy mà tính, 10 năm sau, 100 đồng nợ đầu tiên ấy sẽ thành 2.164 đồng. Ông Trạch rất thâm, tá điền trắng tay ở nơi khác đến sẽ được ông giúp đỡ, cho vay 20 giạ lúa và 5 – 7 đồng để làm vốn ban đầu để rồi sau đó trở thành con nợ của ông, khiến các tá điền của ông cuối mùa gặt chỉ còn lại 20% lượng lúa thu nhập cả mùa.
Đời sống của nhân dân trong điền ông Hội thật là cơ cực. Đó là những xóm làng thưa thớt, đìu hiu. Nhà là những mái lá nhỏ xíu, chỉ cần co chân đạp một cái là đổ lăn kềnh. Chính vì vậy mà người đương thời gọi là “nhà đá nhà đạp”. Xung quanh nhà không có một cây ăn trái lâu năm. Nông dân làm ruộng chỉ đủ ăn qua cái Tết, đến mùa giáp hạt phải đi vay hỏi chủ đất và nợ nần lại quấn lấy đời họ thành một vòng lẩn quẩn nghèo khó ắp lẫm. Có gia đình phải đem con ở đợ cho chủ đất 5 – 10 năm trời mà không trừ hết nợ. Bao nỗi nhục nhằn đổ xuống đầu những tá điền có vợ đẹp, con xinh vì bọn tằng khạo, chủ đất làm nhục. Họ nghèo đến cỡ không có mùng ngủ.
Nhà văn Sơn Nam đã mô tả cảnh ăn ngủ của tá điền trong các điền ông Hội như sau: “Dân nhổ bàng trên bưng ngủ bằng cách ngâm mình dưới nước, chỉ ló lỗ mũi lên nên gọi là ngủ “mùng nước”. Có người lại chống xuồng thật nhanh bỏ bầy muỗi lại sau lưng rồi tranh thủ chợp mắt một tí, sau đó muỗi vây đến thì họ lại tiếp tục chống thật nhanh… Giới tá điền gọi là ngủ “mùng gió”. Có người lại chui vào đống rơm mà ngủ và gọi là ngủ “mùng rơm”. Lại có người đan đệm làm mùng ngủ và thế là “chiếc nóp” ra đời. Thời kỳ khó khăn nhất, tá điền phải mặc quần bô áo bố. Đó là loại bao bố tời, trước dùng để đựng lúa, nay không có vải nên phải cắt ra làm quần áo mặc. Thậm chí, có người còn dùng đệm bàng may quần ngắn đi làm đồng như thời nguyên thủy. Loại “quần áo” này rất lâu khô, đã ẩm ướt thì sinh chí, rận. Chí, rận đến cỡ bắt không nổi phải dùng ve chai lăn nghe rôm rốp. Và sau đó thì dịch bệnh ghẻ lở hoành hành. Nhiều cô gái phải cạo bỏ mái tóc xanh vì chí, rận, ghẻ lở cùng đầu. Nhiều gia đình chỉ còn một cái quần, vợ chồng luân phiên nhau mặc khi đi đám hoặc khi khách đến nhà, số còn lại phải ở trong buồng nói chuyện vọng ra. Đàn ông đi xóm bằng cách lội xuống kinh rạch, lấy nước làm “quần áo”, đến nhà hàng xóm cũng “định vị tại nước” nói chuyện vọng lên rồi về ”…
Đời sống của tá điền thì như thế, còn ông Hội đồng Trạch thì càng ngày càng đại phát vì thời thế lúc bấy giờ luôn tạo cơ hội cho những người nhiều ruộng đất. Toàn quyền Đông Dương vốn là một tay cực kỳ chiến lược, vì thế mà sau thời kỳ “kinh bang tế thế” ở Việt Nam, ông ta về Pháp và đã được bầu làm Tổng thống. Ông ta đã nhanh chóng nhận ra đồng bằng sông Cửu Long là vựa lúa của Việt Nam và ông ta đã đề ra kế hoạch khai thác nó bằng con đường thủy lợi. Riêng ở Bạc Liêu, Tham biện Chủ tỉnh là Lamothe nhận xét bằng một báo cáo tổng quát vào năm 1822: “Trong hiện tại, Bạc Liêu chưa ra gì, nhưng trong tương lai sẽ nhanh chóng trở nên một thành phố lớn nhất của Nam kỳ, sau Sài Gòn. Chỉ cần đào một con kinh nối liền Bạc Liêu xuống Cà Mau và cất một cây cầu nối liền hai bên bờ rạch…”. Xuất phát từ ý đồ, kế hoạch trên mà công cuộc thủy lợi, giao thông ở Bạc Liêu được đẩy mạnh vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Nhà nước thực dân đã bắt dân bản xứ và cho tư bản Pháp đưa xáng vào đào kinh. Thuở ấy, xáng chạy bằng hơi nước, nhiên liệu là củi tràm, đước. Chúng chạy đến đâu là tiếng rít ầm áo ghê rợn vang xa 2 – 3km. Dân ta còn mông muội nên rất sợ mà đồn rằng xáng la đòi ăn thịt con nít. Trên nóc xáng là mấy thằng Tây chỉ trỏ, hò hét, chỉ huy hơn 100 trai đinh bản xứ chở củi đến đốt lò cho máy chạy. Đám hương chức hội tề thì dọn luồng phía trước và đòi ăn hối lộ, bằng không sẽ cho xáng múc tanh bành nhà cửa. Dân ở làng Hòa Bình, Vĩnh Mỹ kéo nhau lên Tòa bố kiện, đòi không đi làm công xâu đào kinh đắp lộ Bạc Liêu – Cà Mau, vì quan Phủ bắt làm quá thời gian quy định của Nhà nước (quy định mỗi năm là 2 ngày công xâu, họ bắt làm đến 2 tháng). Năm 1897, làm xong lộ Bạc Liêu đi Sóc Trăng, nghĩa là nối liền Bạc Liêu với Sài Gòn. Năm 1915, hoàn thành tuyến lộ và con kinh xương sống của Bạc Liêu – Cà Mau, dài 66km. Cũng trong năm này, đào xong con kinh xương sống của bán đảo Cà Mau là kinh Quản Lộ – Phụng Hiệp, dài 140km. Năm 1920, đào xong kinh Hộ Phòng – Quản Lộ, dài 14km. Năm 1925, đào xong kinh Ngan Dừa – Bạc Liêu, dài 28km. Cũng trong năm này, đào xong kinh Lộ Bẻ – Gành Hào, dài 18km…
Và Trần Trinh Trạch trở thành “ngư ông đắc lợi”. Điền đất của ông ta vốn bị ngập úng và phèn lâu đời, sau khi có hệ thống kinh mương này, phèn úng được tiêu thoát ra biển Đông, năng lực đất đai được giải phòng chưa từng có, lúa trở nên trúng mùa. Hệ thống kinh mương cũng làm cho giao thông được thuận tiện, người ở miệt Hậu Giang về đây khẩn hoang nhiều thêm và đất điền của ông Trạch được bổ sung nguồn nhân lực dồi dào hơn. Giá trị đất đai cũng được nâng lên nhiều lần. Lúc này, người Pháp đã mở thương cảng Sài Gòn, do giao thông được thông thương nên lúa của Bạc Liêu đã tham gia xuất khẩu với giá cả đủ sức cạnh tranh ở Hương Cảng, Thái Lan… Bạc Liêu trở thành tỉnh xuất khẩu lúa gạo đứng thứ nhì Nam phần. Năm 1921, Bạc Liêu bán ra khỏi tỉnh là 2.733.333 tạ lúa, 28 năm trước, con số này chỉ là 316.000 tạ (tăng 800%). Diện tích khai hoang ở Bạc Liêu cũng đứng thứ nhì Nam kỳ. Con số chung về sự gia tăng diện tích của hai tỉnh Bạc Liêu và Rạch Giá (nơi có đất điền của ông Trạch) là: năm 1900 chỉ có 136.000 mẫu, nhưng 30 năm sau (1930) tăng lên 600.000 mẫu, đứng nhất Nam phần.
Mấy con số chung ấy đã chứng minh một cách sinh động rằng người có nhiều điền đất như ông Trạch thì càng gặp thời cơ lớn và vì thế ông Trạch giàu “nứt đố đổ vách” là chuyện tất yếu. Ông Trạch đã biết phát huy tối đa tiền của và thế lực hiện có của mình để mở rộng làm ăn. Một mặt, ông Trạch đã phát triển số lượng ghe chài để chở lúa gạo của mình và thu mua thêm mang về Sài Gòn bán. Một mặt, ông đã cất nhà máy xay xát lúa gạo lớn nhất miệt Hậu Giang với tên gọi là nhà máy Hậu Giang. Chính cái tên “nhà máy lửa” ấy đã phản ánh ý đồ của ông Trạch là muốn chế biến lúa gạo cho cả vùng Hậu Giang.
Nhà máy Hậu Giang tọa lạc tại thị xã Bạc Liêu. Sau giải phóng năm 1975, Ủy ban Quân quản tiếp quản nhà máy rồi giao cho Công an thị xã làm Trại cải tạo và bây giờ thì nó không còn mảy may dấu vết. Nhà máy Hậu Giang có công suất 15 tấn một ngày, bánh trớn của nó nặng đến 10 tấn, ống khói thì vươn cao lên trời xanh, đứng xa 7 – 8km cũng nhìn thấy. Khi cất nhà máy này, Trần Trinh Trạch đã giao cho con trai lớn của mình là Trần Trinh Đinh hay còn gọi là Hai Đinh hoặc Hội đồng Hai cai quản.
Hai Đinh cũng là một nhân vật trong nhóm Công tử Bạc Liêu khét tiếng ăn chơi. Giai thoại kể rằng, có lần ngồi trên một chiếc xe do một người Khmer lái (ông này là tài xế của ông Hoàng Xi-ha-núc của Campuchia), thấy vợ tài xế quá đẹp, tâm thần mê mẫn, Hai Đinh đặt vấn đề thẳng:
- Mầy bán vợ mầy cho tao, bao nhiêu cũng được.
Tài xế nghe nổi nóng và nói cho bỏ ghét:
- Tôi bán 20.000 đồng, ông có tiền mua không?
Tưởng nói cho đã giận, ai dè Hai Đinh mua thật. Lúa hồi đó chỉ có 1,2 đồng một giạ. Vợ người tài xế đã ở với Hai Đinh đến cuối đời. Từ đó, Hai Đinh có thói quen vận xà rông…
Trần Trinh Trạch đã chú ý khai thác những lợi thế của Bạc Liêu. Như đã nói trên, tất cả những sở muối của Phan Hộ Biết (cha vợ ông Trạch) bằng thủ thuật cho vay và mua lại, lần lần chuyển về tay Trần Trinh Trạch. Ruộng muối của Bạc Liêu từ Gành Hào về Vĩnh Châu là 13 lô thì Hội đồng Trạch chiếm hữu hết 11 lô, còn lại một lô của cha Sở và một lô của dân thường, Trần Trinh Trạch lại gặp thời cơ lớn. Người Huê kiều sang Biển Hồ (Campuchia) hoặc đến Cà Mau, Bạc Liêu để phát huy nghề truyền thống của mình là làm cá khô xuất qua Hồng Kông, Philippines, Nhật… Lúc đó, mặt hàng này xuất khẩu rất mạnh. Thời đó, chưa có công nghệ nước đá, việc ướp cá tất tần tật đều phải nhờ đến muối. Thế nên đến mùa muối, ghe thương hồ tấp nập dưới bến Bạc Liêu để ăn hàng rồi chở về Campuchia hoặc lên Sài Gòn. Ngay tại Bạc Liêu, Cà Mau đây thôi, nhu cầu muối cũng đã rất cao vì Bạc Liêu, Cà Mau là tỉnh nổi tiếng nhiều cá, muối để làm mắm, để muối ba khía… Thế nên giá muối rất cao. Có lúc 1 giạ muối mua được 5 giạ lúa, và vì thế ông Trạch càng “vô mánh”.
Ngoài những nghề trên, ông Trạch còn mua đất cất phố lầu để cho thuê. Cho đến bây giờ, hậu duệ của dòng họ Trần cũng không nhớ nổi tại chợ Bạc Liêu, ông Trạch có bao nhiêu căn phố lầu. Họ chỉ đoán rằng, hầu hết các dãy phố cất trước năm 1930 ở thị xã Bạc Liêu đều là của Trần Trinh Trạch.
Năm 1917, Hội đồng Trạch cất ngôi biệt thự theo mô-típ Pháp tại bờ sông Bạc Liêu (nay là Trung tâm Thể dục Thể thao thị xã Bạc Liêu đang ở và UBND tỉnh đã có quyết định giao cho ngành Du lịch để trùng tu, tái tạo, phục vụ cho khai thác du lịch). Người bình dân lúc bấy giờ và dòng họ Trần Trinh gọi ngôi biệt thự này là nhà lớn. Tương truyền nó to, đẹp nhất Bạc Liêu lúc bấy giờ. Tại Bạc Liêu, ông Trạch còn 2 ngôi biệt thự to nữa, đó là nhà số 42, đường Bà Triệu, phường 3 ngày nay và ngôi biệt thự hiện là trụ sở Thư viện tỉnh. Ở Rạch Giá, Cần Thơ, Đà Lạt, Vũng Tàu đều có biệt thự của ông. Đặc biệt là ở Sài Gòn, ngoài ngôi biệt thự ở đường Nguyễn Du (sau này Trần Trinh Huy ở), ông còn nhiều căn phố lầu. Ngoài ra, sở điền nào lớn thì đều có nhà ông Trạch. Những ngôi biệt thự của ông Trạch bên ngoài thì theo mô-típ Pháp nhưng bên trong lại pha trộn giữa Đông – Tây. Nó vừa theo thời trang bấy giờ là trang hoàng bàn ghế danh mộc, kiểu Lu-i 15, Lu-i 16 của Pháp hoặc chạm mô-típ Á Đông như mẫu đơn, mai, trúc; chân bàn chạm kỳ lân ngậm châu. Trên bàn giữa trưng đồng hò reo, bình bông. Trên tường treo đồng hồ đờn… Và nó lại vừa pha vào đó là nội thất theo mô-típ cung đình Huế của các bậc bá hộ, phú hào lúc bấy giờ, gồm có: khánh thờ được chạm trổ tinh xảo long, lân, quy, phụng; các họa tiết mai, cúc, tùng, trúc, cua, cá…; các bình phong, câu đối sơn son, thiếp vàng; trên bàn thờ chưng hạc đội đèn, bộ lư mắt tre… Đồ vật tại ngôi nhà lớn của Hội đồng Trạch là cực kỳ quý giá, trong đó có bộ trường kỷ mà ngày xưa Ngô Đình Cẩn, em ruột Ngô Đình Diệm cho người vào trả giá 2 triệu đồng mà họ Trần không bán. Những đồ vật dùng hàng ngày cũng là đồ quý như chén dĩa thì đầu bịt bạc mua từ Pháp về… Ông Phan Kim Khánh, con trai của nhân sĩ yêu nước Phan Kim Cân và là cháu ngoại của Trần Trinh Trạch, thuở nhỏ cũng là một tay ăn chơi, mà dân Bạc Liêu gọi là Công tử Khánh, đã kể về cách ăn chơi của mình và trong câu chuyện ấy, ta thấy những cổ vật vô giá của dòng họ Trần Trinh:
Vào thập niên 60, tôi học ở Sài Gòn, vì ăn chơi quá trớn nên mặc dù nhà giàu, tiền cung cấp cho tôi cũng không đủ. Một bữa đang cháy túi, có một người đến nói nhỏ rằng có một ông chủ lớn cần gặp tôi. Sau này, tôi mới biết ông ta là trùm buôn đồ cổ ở Chợ Lớn. Tôi đến thì được dẫn vào một ngôi nhà to, cổ kính rồi đi qua 3 lớp cửa, có người đứng gác. Ông trùm nằm trên bộ trường kỷ, lim dim cạnh bộ bàn đèn hút á phiện. Sau lưng ông ta hai nàng “xẩm” tuyệt đẹp đang quạt hầu. Ông trùm mặc áo “xá xẩu”. Thấy khách đến ông cũng không ngồi dậy, chỉ ra hiệu kêu ngồi xuống ghế đối diện, rồi ra hiệu cho một trong hai nàng “xẩm” đến quạt cho khách. Ông trùm nằm im mãi một lúc sau mới lên tiếng:
- Hết tiền ăn chơi rồi phải không? “Ngộ” gọi “nị” đến để đưa tiền xài, không phải cho mà là một cuộc làm ăn sòng phẳng.
Tôi ngạc nhiên, thằng cha Ba Tàu này sao nó biết tỏng mình nhỉ? Sau đó, ông trùm nói tiếp:
- Trên bàn thờ ông ngoại “nị” ở nhà lớn, dưới Bạc Liêu có trưng 5 cặp lục bình, cặp đầu tiên cao 7 tấc, tạc con rồng ôm quanh thân bình, dưới đít có dấu ấn đỏ. “nị” về mang nó đến đây, “ngộ” sẽ trả 250.000 đồng…
Tôi càng hoảng hồn hơn, thằng cha này sao nó biết tỏng những đồ vật ở phủ thờ ông ngoại mình? Tôi đồng ý. Ông trùm sai người nhà mang 20.000 đồng cho tôi làm lộ phí đi đường. 20.000 đồng bằng tiền mua một chiếc xe gắn máy thời đó. Sáng hôm sau, tôi hộc tốc về Bạc Liêu ăn cắp đồ của ông ngoại. Ông lẩm bẩm như kẻ điên: “Ý nguyện đời ta đã thực hiện được rồi!”. Sau đó ông ký séc cho tôi 250.000 đồng và bảo:
- Nghe nói “nị” khoái ăn chơi, đêm nay “ngộ” sẽ tặng “nị” một đêm “nhất dạ đế vương”.
Tôi là tay ăn chơi nổ trời vậy mà chưa lần nào được ăn chơi độc đáo như lần này: “Mình mặc áo long bào xung quanh có gần 20 “cung tần, mỹ nữ” thuộc loại đẹp như hoa hậu, muốn chọn cô nào tùy thích.
“Quan thái giám” bảo:
- Hoàng thượng muốn dùng cao lương mỹ vị gì xin ban lệnh để hạ thần dọn.
Một người bạn nối khố, cùng quê theo tôi đêm đó nói nhỏ:
- Mày thử kêu món gì không có trên đời coi bọn họ làm sao?
Tôi liền kêu cho ăn gan rồng. Sau đó, họ dọn lên một cái khay to, trên khay là một con rồng giống in như… tranh, được làm bằng vật liệu củ hủ dừa. Giữa con rồng, họ giẽ lòi ra cái gan to gần bằng cái chén. Tôi hỏi gan gì? “Quan thái giám” bảo đó là gan công. Công ngang tước phẩm với long, nên gan nó có thể thay thế gan rồng. Tôi vỗ tay bái phục: “Những tay người Hoa này quả là thâm thúy!”.
Gần 4 tháng sau, cũng vào dịp mà tôi cháy túi, ông trùm lại mời đến và bảo:
- Hết tiền rồi phải không? Lần này “nị” về mang cho “ngộ” một cặp lục bình nằm tận cùng bên trong. Thân bình in phong cảnh núi sông. Trong mỏm đá có hai ông tiên câu cá. Và dưới đít cũng có in một chữ triện đỏ. “Ngộ” sẽ trả “nị” 250.000 đồng và tặng thêm một chiếc Bil 3 đèn mới toanh.
Tôi về chỗ bàn thờ ông ngoại và giật mình thấy đúng y như lời ông trùm nói. Mang hàng lên, tôi thắc mắc với ông trùm:
- Giá một chiếc xe Mẹc-xi-đéc mới toanh có 500 ngàn, một cặp lục bình chẳng ra hồn sao ông lại dám mua bằng một chiếc xe hơi?
Ông trùm bảo:
- “Nị” còn trẻ, lại không am tường đồ cổ nên không biết. Thật ra, những cặp lục bình này là vô giá, để “ngộ” nói cho “nị” rõ. Ở bên Tàu, nó là những cặp lục bình được sản xuất theo đơn đặt hàng, mỗi cái có bản lý lịch hẳn hoi và có đóng dấu. Nó chỉ dùng để tiến vua khi vua đăng quang và chỉ có vua mới dùng được, coi như là vật gia bảo của hoàng tộc. Trên bình, chân rồng giương ra năm móng (nếu đồ của dân dùng chỉ có 4 móng thôi). Trong triều đại phong kiến Trung Hoa, dân mà có lục bình năm móng thì bị chặt đầu ngay. Có lẽ ông ngoại “nị” (Trần Trinh Trạch) muốn khẳng định cái uy vũ của mình ngang bằng với vua chúa.
Ghê thật, Trần Trinh Trạch giàu đến cỡ chơi trội ngang với vua chúa ư?
Trước khi theo ông theo bà, Trần Trinh Trạch lo hậu sự cho mình rất kỹ. Năm 1919, ông đã mời thợ nổi tiếng tận bên Thụy Sĩ sang Việt Nam để tạc tượng cho vợ chồng ông. Không biết họa sĩ ở bao lâu mà tạc được 4 bức tượng: một đôi của Trần Trinh Trạch, một đôi của bà Phan Thị Muồi – vợ ông ta. Đôi màu trắng bằng vật liệu đá hoa cương, đôi màu đen bằng chất liệu kim loại tổng hợp. Tượng tạc theo kiểu bán thân, kích cỡ như người thật. Tượng bà Muồi mặc áo dài, còn ông Trạch thì áo dài khăn đóng, ngực đeo Ngũ đẳng Bội tinh. Hiện 4 bức tượng do cháu ngoại của ông cất giữ tại thị xã Bạc Liêu.
Một vài người ở Bàu Sàng, hiện đã hơn 80 tuổi, từng làm tá điền cho Trần Trinh Trạch kể rằng họ đã từng bị chủ điền bắt đi đắp nền mộ cho Trần Trinh Trạch. Thời đó, dân ở các sở điền phải đi đắp nền mộ cho ông lớn Trạch giống như đi làm nghĩa vụ công ích ngày nay. Nền mộ hồi đó đắp rất lâu vì nó cao đến 1m và diện tích đến 1.000 mét vuông. Ý đồ của ông Trạch là sẽ xây như lăng tẩm các vua chúa ngoài Huế. Thế nhưng, khi ông qua đời thì đại chiến thế giới thứ II sắp bùng nổ, tình hình trong nước bất lợi cho giai cấp địa chủ, ông Hội thì đã già, đã suy yếu về mặt uy vũ lẫn tài chánh, thế nên việc xây lăng không thành. Song, hiện trạng bây giờ nó cũng là một trong những ngôi mộ lớn, tốn tiền của nhất Bạc Liêu.
Ông Trạch có 7 người con gồm: Trần Trinh Đinh, sinh ngày 26/10/1896; Trần Trinh Huy, sinh ngày 27/6/1900; Trần Thị Huệ, sinh ngày 22/6/1902; Trần Thị Thu, sinh ngày 15/1/1904; Trần Thị Đông, sinh ngày 4/1/1906; Trần Thị Dày, sinh ngày 30/6/1911; Trần Trinh Khương (Tám Bò), sinh ngày 1/11/1914.
Nếu ba người con trai của Trần Trinh Trạch phong lưu, hào phóng nổi tiếng thì ngược lại, ông Trạch cả đời chỉ chí thú chăm bẵm lo gầy dựng tiền tài và quyền lực. Ông Trạch chỉ có một vợ và sống với vợ rất thủy chung. Không nghe ai nói gì đến thói gió trăng ong bướm. Có lần ông Trạch lên Sài Gòn tìm Trần Trinh Huy, vì Huy ăn cắp tiền của ông đi chơi, Ba Huy đã tổ chức cho một cô đào rất đẹp hòng đánh bẫy ông già để ông sập bẫy mà tiếp tục moi tiền… Thế nhưng, Ba Huy đã thất bại. Ông Trạch có thói quen mặc bộ đồ mỏng màu trắng, áo như “áo túi” của phụ nữ vào thập niên 50 trở về trước. Ông sống rất cần kiệm. Đặc biệt, bà Phan Thị Muồi – vợ ông lại càng cần kiệm hơn. Bà như ông Thần Tài giữ của nhà họ Trần, suốt ngày bắt ghế bố nằm ngay cửa cái. Con mắt không thể mở như người bình thường mà khi nhìn ai, phải lấy tay vạch mi mắt lên. Bà không bao giờ được ăn thịt mỡ vì ăn vào sẽ ỉa chảy. Bữa cơm của một mệnh phụ nổi tiếng ấy chỉ là ba khía, mắm chưng suốt năm này tháng nọ.
Tất cả ruộng đất của Trần Trinh Trạch gồm 74 sở điền với 110.000ha đất trồng lúa và gần 100.000ha đất muối, sau Cách mạng tháng Tám, chính quyền nhân dân đã tịch thu cấp cho tá điền đến 90%. Suốt thời gian 9 năm kháng Pháp, dòng họ Trần Trinh bị thất thu nặng nề. Thế nhưng đến thời kỳ Mỹ ngụy, chính quyền thực dân mới bằng thủ đoạn chiêu dụ nông dân đã ban hành “Sắc luật 03 – người cày có ruộng”, thế là dòng họ Trần bán đất truất hữu hết chỉ chừa lại 1.000 công ở Cái Dầy để làm đất hương hỏa. Nghe nói lần bán đất này đã mang lại cho nhà họ Trần Trinh một khoản tiền khổng lồ, con cháu họ Trần đã mang số tiền trên gởi nhà băng rồi chia nhau phần lời.
Trần Trinh Trạch qua đời đã phân chia quyền thừa kế rõ ràng. Tài sản ông để lại gồm 3 phần: Điền thổ; bất động sản và tiền trong ngân khố; phần hương hỏa… trong tờ lập hương hỏa, Ty trưởng bảo thủ điền thổ Bạc Liêu ký ngày 10/2/1955, thể hiện như sau: “Phần hương hỏa này sẽ giao cho mỗi người trong số năm người kế nghiệp còn sanh tiền luân phiên nhau thâu hưởng huê lợi đặng lo tu bổ mộ phần ông bà và phụng tự mỗi người là ba năm, bắt đầu là con trai trưởng nam”. Về điền thổ, viên quản thủ điền thổ Bạc Liêu lập “dự di nhượng” như sau: “Căn cứ vào tông chí đề ngày 31/11/1953, do hương chức làng Vĩnh Lợi chứng thực và trước bạ Phòng điền thổ Bạc Liêu ngày 7/12/1953… thì ông Trần Trinh Trạch lúc sanh tiền, điền trú tại Vĩnh Lợi, Bạc Liêu, từ trần ngày 14/3/1943 đã để cho 7 người con kế thừa ông trong tất cả tài sản quyền lợi…”.
Chiếu theo 2 văn tự này, thì Trần Trinh Trạch đã cho tất cả 7 người con của mình được quyền kế thừa toàn bộ tài sản, riêng phần hương hỏa chỉ dành cho 5 người, bởi một người đã chết và một người đã ngụ cư ở Pháp) theo cách: mỗi người được hưởng huê lợi để cúng kiến 3 năm, luân phiên nhau bắt đầu từ con trai trưởng là Trần Trinh Đinh. Người đứng ra điều hành việc phân chia là ông Hen Ri (người Pháp) vốn là quản gia thân tín nhất của Hội đồng Trạch. Ông Hen Ri được hưởng 10% trên lợi tức do việc kinh doanh hằng sản của cụ cố Trần Trinh Trạch mang lại. Đồng thời, ông lại được hưởng 10% khi phân chia quyền thừa kế cho các con ông Trạch không bằng lòng và vì thế số tiền truất hữu điền địa vào thời kỳ Mỹ – ngụy, họ đã chủ trương không rút ra khỏi ngân khố vì sợ ông Hen Ri hưởng 10%. Ông Hen Ri về Pháp sau giải phòng năm 1975, vì được lãnh sự Pháp can thiệp. Ông Hen Ri có vợ Việt, là cháu của Trần Trinh Trạch.
Trần Trinh Trạch qua đời vào năm 1943, lúc mà tình hình chính trị rất bất lợi cho giai cấp điền chủ Bạc Liêu, lúc mà ông không còn quyền uy và tiền bạc đã bắt đầu suy giảm. Thế nhưng, cái đám tang của ông to đến cỡ thành một giai thoại, những người lớn tuổi ở Bạc Liêu hãy còn nhớ rõ. Nhà nước Pháp cử một đội lính lê dương súng ống nai nịt chỉnh tề, đưa ông Trạch từ Sài Gòn về và dẫn đầu đám tang đưa ông ra tận huyệt – gọi là đưa người có Ngũ đẳng Bội tinh đến nơi an nghỉ cuối cùng. Dòng họ Trần Trinh chủ trương không thu tiền phúng điếu và tá điền đến dự đưa tang và để tang được cho 1 cắc tương đương với gần 1 giạ lúa. Tá điền tận Vĩnh Hưng, Bàu Sàng cũng được huy động ra để che rạp và phục dịch. Lúc đó, sông Bạc Liêu hãy còn nhỏ, nên cái sân trước mặt nhà lớn to lắm. Và người ta đã che cái rạp to đến mấy công đất từ mặt tiền nhà lớn đến giáp bờ sông Bạc Liêu. Đám tang được quàn 7 ngày 7 đêm. Ai đến ăn uống cũng được. Dân đi chợ không quen biết gì cũng ghé ăn cơm đám ma. Đặc biệt là đám người ăn xin tận Sóc Trăng xa xôi cũng kéo đến “ăn dầm nằm dề”, coi như họ đã được no nê suốt 7 ngày đêm. Khi đưa tang, thân bằng quyến thuộc, bạn bè và tá điền đi thành một đoàn dài 5 cây số (cái đầu đã đến khu mộ mà cái đuôi còn ở nhà lớn) với xe cộ rầm rầm và hàng trăm tấm giản lẫn tràng hoa. Ba dàn nhạc: Tìa lào cấu (Hoa), Ngũ âm (Khmer) và nhạc đạo tỳ (của người Việt) trỗi lên nghe vui hơn buồn. Có thể nói, đó là một đám tang lớn nhất tính từ khi Bạc Liêu có người chết đến giờ.
Đó là toàn bộ những nét lớn về gia thế của dòng họ Trần Trinh – một đại điền chủ giàu nức tiếng Nam kỳ vào thập niên 40 trở về đầu thế kỷ.
Chính nơi đây đã sản sinh ra một con người cũng cực kỳ nổi tiếng về thói ăn chơi, một người “ngon” nhất Nam bộ… Đó là Công tử Bạc Liêu – Trần Trinh Huy.
Trần Trinh Huy sinh ngày 22/6/1900, tại làng Vĩnh Hương, quận (huyện) Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu; mất năm 1973, tại Sài Gòn, táng lại Cái Dầy (chung với khu mộ Trần Trinh Trạch) thuộc xã Châu Hưng, huyện Vĩnh Lợi ngày nay.
Ngoài tên khai sinh là Trần Trinh Huy, người đời còn đặt cho ông ta nhiều tên gọi khác nhau: Ba Huy, Hội đồng Ba (đây là cách gọi của tá điền hồi xưa; thật ra Trần Trinh Huy không có thành viên của Hội đồng nào cả), Công tử Bạc Liêu và Hắc Công tử. Tên gọi Hắc Công tử ra đời từ nước da ngăm đen của ông và để phân biệt, đối xứng với Bạch Công tử là con trai ông Đốc phủ Sảng, da trắng, nhà giàu, ăn chơi cũng vào hạng “cao thủ võ lâm” ở Tiền Giang. Nếu ở miệt Hậu Giang có Hắc Công tử thì ở miệt Tiền Giang có Bạch Công tử. Kẻ chín lạng người cũng nửa cân, đây là một cặp lưỡng trong tranh châu. Họ đã gặp nhau để thi thố ăn chơi, tạo nên những giai thoại nổi tiếng đến tận bây giờ, xin được nói ở phần sau.
Trần Trinh Huy cao lớn (khoảng 1,7m), lực lưỡng nhưng không cục mịch, trái lại, tướng tá rất thanh thoát, sang trọng. Huy đậm người, da đen, tóc đen, mày rậm… người đầy sinh lực. Tính tình Huy rất dễ dãi và hào phóng. Con cái trong nhà lầm lỗi, Huy cũng ít rầy la. Bà con ở xa lên thăm, Huy đều cho tiền. Trong các mối quan hệ, Ba Huy là người khoáng đạt, không dè dặt và chẳng mưu toan gì. Thời đó, các cậu công tử lẫn chủ điền chơi với người Pháp thì rất khúm núm nịnh nọt, gọi là “chơi thế”, còn Ba Huy thì cứ “toa toa” “moa moa” sòng phẳng, ngang hàng. Nếu như trong mắt giới giang hồ tứ chiếng, Ba Huy là một người ngon nhất Nam bộ, thì trong mắt người Pháp, Huy được nể trọng vì có vợ đầm và mướn người Pháp làm công cho mình. Tánh của Ba Huy vị tha và coi tiền như rơm như rác. Lúc cuối đời, tài chính suy kiệt, Ba Huy từ Sài Gòn về Bạc Liêu bán một dãy phố lầu cuối cùng. Khi đến nhà băng rút tiền, gặp một người quen, trước làm quản lý cho nhà họ Trần Trinh, nay làm ở ngân khố. Ông này khuyên: số tiền nhiều quá cậu Ba xài cũng không hết, thôi cứ gởi lại cho nhà băng, cần bao nhiêu thì rút bấy nhiêu, nó đẻ lời ra mà xài”. Ba Huy khoát tay: “Chút đỉnh, không cần…”. Câu nói đó đã lột tả tính cách của “dân cậu”.
Ba Huy sinh hoạt cực kỳ sang trọng và xa hoa. Ra đường là đóng bộ veston, thứ hàng đắt tiền nhất thời đó. Thói quen của Ba Huy là sáng ăn kiểu Tây, trưa ăn cơm Tàu, chiều ăn cơm Tây. Món mà Ba Huy thích, sáng ăn bánh mì với bơ, uống cà phê sữa, trưa ăn súp vi cá, chiều ăn cari nấu bằng hai loại cá: cá chẽm và cá chim. Ngày, Ba Huy chẳng có công việc làm ăn gì cả, hoặc là ở nhà đọc báo hoặc giao du chơi bời với tầng lớp quý tộc ở Sài Gòn lúc bấy giờ, nhưng chiều là tài xế đánh xe chở Ba Huy đi nhà hàng chơi bời đến khuya. Đến chủ nhật thì ông ta đi Cấp (Vũng Tàu) hoặc Đà Lạt hay về Cần Thơ nghỉ cuối tuần. Ba Huy là một con người luôn xê dịch, ông không ở được chỗ nào quá một tuần lễ và cực kỳ ham vui. Riêng về phong tình thì ham hố một cách thái quá.
Ba Huy được Trần Trinh Trạch cưới cho một người vợ đầu tiên và duy nhất là bà Ngô Thị Đen. Bà này sinh trưởng tại Bạc Liêu, là em của Hội đồng Điều (nhà của họ hiện là trụ sở Sở Nông nghiệp & Phát triển nông thôn tỉnh Bạc Liêu. Ngày xưa, chính quyền Pháp và Mỹ ngụy cũng đã trưng dụng ngôi nhà này làm bốt, (gọi là bốt Hội đồng Điều). Bà Đen là con ông Bá hộ Mín, một trong các đại điền chủ có số lượng điền sản lớn nhất Bạc Liêu. Bà Ngô Thị Đen thừa kế một số tài sản rất lớn từ tiền truất hữu đất của ông cha. Những người làm trong ngân khố thời Mỹ ngụy kể rằng: “Cứ cách một tuần là người ta thấy 2 trái phiếu tiền truất hữu có số lượng tiền lớn nhất trong các trái phiếu ở Bạc Liêu mang tên Trần Trinh Trạch và Ngô Thị Đen, được gởi song song với nhau”. Bà Đen ở với Trần Trinh Huy được một người con gái tên là Trần Thị Lưỡng, người Bạc Liêu đương thời gọi là cô Hai Lưỡng. Bà Lưỡng lấy chồng là Thư ký riêng của vua Bảo Đại.
Sống với Trần Trinh Huy – một người đàn ông phong lưu, ưa thích trăng gió, dĩ nhiên là khó có được hạnh phúc. Ở với chồng một thời gian, bà Đen theo gia đình qua Pháp sinh sống. Sau đó, bà bị bệnh bướu não phải chở qua Thụy Sĩ phẫu thuật rồi qua đời vào năm 1972. Sau khi bà chết, gia đình bà và đứa con của Trần Trinh Huy ở với người vợ đầm mua một cái hòm tráng thủy để khâm liệm bà chở về Việt Nam. Đám tang của bà Ngô Thị Đen cũng được người Bạc Liêu truyền miệng như một giai thoại, rằng: quan tài của bà quàn tại nhà lớn (nhà Trần Trinh Huy ở Bạc Liêu), người bình dân từ xa xôi hẻo lánh kéo ra nhà lớn ùn ùn như đi trẩy hội. Họ đến không phải để đi đám mà để xem chiếc hòm. Nghe nói chiếc hòm được mua đến 10 triệu đồng (vào thời điểm năm 1972). Nó được thếp vàng, xung quanh có 8 quai xách, trên nắp hòm có ô cửa kính, hễ mở chìa khóa là bật ra một ô cửa nhìn vào thấy mặt người chết như nằm ngủ.
Ngoài người vợ trên, Trần Trinh Huy có nhiều con và nhiều dòng con. Hậu duệ của dòng họ Trần giờ đây cũng chỉ đếm được mấy dòng như sau: Cô Hai Lưỡng là một dòng (chỉ có dòng con này là cưới xin, có hôn thú hẳn hoi, còn các dòng còn lại là do Ba Huy tự kiếm). Dòng vợ hai có con tên Nhơn, Đức. Dòng ba có con tên Hoàn, Toàn, Trinh và Nữ… Và nhiều con rơi mà họ không nhớ tên hết.
Trong 3 người con trai thì chỉ có Trần Trinh Đinh và Trần Trinh Khương ít nhiều gì cũng giúp được Trần Trinh Trạch phát triển sự nghiệp. Trần Trinh Trạch là người Minh Hương nên tánh tình rất kỹ lưỡng trong việc quản lý tiền bạc và tài sản, ông đã thực hiện chế độ tự quản đối với Đinh và Khương. Ông giao điền sản cho hai người con này cai quản rồi quy định mức thu hàng năm, năm nào thu vượt thì được thưởng, năm nào đạt thấp thì trừ vào lương. Thế nhưng, đối với Trần Trinh Huy thì Trần Trinh Trạch áp dụng “cơ chế” thoáng hơn là khi giao điền sản cho Ba Huy cai quản, ông Trạch không quy định mức thu hàng năm. Vì thế, Huy có nhiều cơ hội “moi” tiền, lúa để ăn chơi. Một điều cho thấy nữa là Trần Trinh Trạch đối xử giữa các người con không công bằng, tức là thương Ba Huy hơn cả. Trần Trinh Đinh học chưa xong tú tài là ông đã bắt về cai quản điền sản, còn Trần Trinh Huy thì ông cho đi học cả bên Tây. Khi về, Ba Huy được giao cai quản toàn bộ điền sản, tiền bạc trong tay, muốn chi xuất bao nhiêu tùy thích.
Thuở nhỏ, Trần Trinh Huy sống ở Bạc Liêu, lớn lên ngay trong thời điểm phong trào Tây học thì lên Sài Gòn học đến bậc thành chung rồi sang Pháp học 3 năm. Sau Cách mạng tháng Tám, Ba Huy lúc thì ở Bạc Liêu, khi lại lên Sài Gòn, sau đó thì ở luôn trên Sài Gòn tại căn biệt thự đường Nguyễn Du đến cuối đời cùng với một người vợ rất trẻ.
Theo: Baobaclieu
Xem tiếp... Công tử Bạc Liêu - Sự thật và giai thoại
Đăng nhận xét